Nguy cơ Tim mạch – Các yếu tố có thể thay đổi để kiểm soát bệnh
Mục lục
Cholesterol và mỡ máu
=> trở lại danh sách các nguy cơ
Nguy cơ bệnh tim mạch và nguy cơ đột quỵ tăng cao do hàm lượng cholesterol trong máu.
Thống kê toàn cầu cho thấy 1/3 bệnh tim thiếu máu cục bộ là do chỉ số cholesterol cao.
Việc cholesterol tăng ước tính gây ra 2,6 triệu ca tử vong (4,5% tổng số ca tử vong) và 29,7 triệu trường hợp giảm tuổi thọ do bệnh tật (2% tổng số gây ra bởi tất cả các loại bệnh).
Ở Việt Nam, tỉ lệ người có chỉ số cholesterol cao là 29%, đặc biệt ở thành thị tỉ lệ này lên đến 44,3%. Tỉ lệ cholesterol cao tăng nhanh chóng và khi bước sang tuổi 35 nguy cơ tăng gần 3 lần so với độ tuổi trước đó. Tính trung bình cả nước cứ 10 người thì gần 3 người có mức cholesterol cao, riêng ở thành thị, cứ 2 người thì có một người dư thừa cholesterol.
Giảm cholesterol trong máu giúp giảm nguy cơ bệnh tim. Theo Tổ chức Sức khỏe Thế giới, nếu cholesterol toàn phần giảm 23mg sẽ giúp giảm 20%-54% nguy cơ bệnh tim mạch. Còn nếu HDL-c tăng 1,2 mg thì giảm được 3% nguy cơ bệnh tim mạch.
Mức độ bất bình thường của mỡ máu là yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch.
Cholesterol
Cholesterol là một chất béo dạng sáp mềm trong máu và trong tất cả các tế bào của cơ thể. Nó cần thiết để tạo màng tế bào và kích thích tố (hóc-môn).
Cơ thể con người hấp thu cholesterol từ thực phẩm nguồn động vật như thịt, sữa và pho mát. Cơ thể cũng tạo ra cholesterol từ thực phẩm vốn không chứa cholesterol như dầu dừa, dầu cọ và chất béo chuyển hóa (thường được sử dụng trong thực phẩm như khoai tây chiên, bánh ngọt và bánh quy).
Cholesterol được vận chuyển trong máu nhờ các hạt gọi là lipoprotein: lipoprotein mật độ thấp (LDL) và lipoprotein mật độ cao (HDL). Trị số cholesterol LDL cao sẽ dẫn đến xơ vữa động mạch làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Cholesterol HDL giúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch vì nó mang cholesterol ra khỏi dòng máu.
Estrogen, một loại hoóc môn ở nữ, làm tăng mức độ cholesterol HDL, một phần giải thích những nguy cơ mắc bệnh tim mạch thấp ở phụ nữ tiền mãn kinh.
Một thực tế là nhiều người không ăn mỡ, trứng, người ăn chay trường lâu năm hoặc người gầy… vẫn bị rối loạn mỡ máu. Điều tưởng như vô lý này là do cholesterol có 2 nguồn gốc:
➤ Chỉ 20% nhu cầu cholesterol hấp thu từ thức ăn hàng ngày trong thịt, mỡ, trứng
➤ Còn 80% lượng cholesterol là do gan tự tổng hợp từ đường, đạm. Đặc biệt cơ thể suy yếu càng gây hạn chế sự tiêu thụ cholesterol.
Vì thế, dù không ăn mỡ, nhiều người vẫn gặp phải rối loạn mỡ máu.
Các chất béo trong máu khác – triglycerid
Triglycerid là loại chất béo phổ biến nhất trong cơ thể. Trị số triglycerid bình thường khác nhau tùy theo độ tuổi và giới tính. Nếu bạn có bệnh tim hoặc tiểu đường thì trị số triglyceride có thể ở mức cao hơn.
Trị số triglycerid cao cùng với mức độ cholesterol LDL cao làm tăng tốc độ xơ vữa động mạch và tăng nguy cơ đau tim, đột quỵ.
Để tốt cho tim mạch nên có chỉ số mỡ máu như thế nào❓
Mức độ mỡ máu phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính, đặc điểm di truyền, lối sống và sẽ thay đổi theo thời gian. Mặc dù khó định nghĩa một ngưỡng an toàn và nguy hiểm cụ thể cho từng cá nhân khác nhau, tuy nhiên có những khuyến nghị bác sĩ đưa ra để bạn đối chiếu và cố gắng giữ trị số tối ưu.
Tổng số cholesterol | Cholesterol LDL (xấu) | Cholesterol HDL (tốt) | Triglycerid | |
Việt Nam | < 200 mg/dL
( < 5,2 mmol/L) |
< 130 mg/dL
( < 3,3 mmol/L) |
> 50 mg/dL
( > 1,3 mmol/L) |
< 160 mg/dL
( < 2,2 mmol/L) |
Châu Âu | < 193 mg/dL
( < 5,0 mmol/L) |
< 116 mg/dL
( < 3,0 mmol/L) |
Nữ > 46 mg/dL
( > 1,2 mmol/L) Nam > 39 mg/dL ( > 1,0 mmol/L) |
< 150 mg/dL
( <1,7 mmol/L) |
Mỹ | < 197 mg/dL
( < 5,1 mmol/L) |
< 100 mg/dL
( < 2,6 mmol/L) |
> 39 mg/dL
( > 1,0 mmol/L) |
< 150 mg/dL
( < 1,7 mmol/L) |
=> trở lại danh sách các nguy cơ
💡 Xem thêm bài viết: Rối loạn mỡ máu – Nguyên nhân ảnh hưởng và cách kiểm soát.